Thứ Sáu, 16 tháng 11, 2012

Thận trọng với tôm sú chân đỏ


Đầu năm 2011, tại ĐBSCL rộ lên phong trào nuôi tôm sú chân đỏ. Giống tôm này được bán với giá cao kèm lời giới thiệu “có cánh” về sức đề kháng bệnh, tốc độ sinh trưởng, hiệu quả kinh tế... của cơ sở cung cấp. Sự thật giống tôm mới này thế nào?

Một chiêu PR
Tại tỉnh Cà Mau, một số cơ sở, đại lý kinh doanh giống thủy sản đưa ra sản phẩm mới - tôm sú chân đỏ (tôm sú châu Phi) - được quảng bá có chất lượng tốt; nhiều người đã thả nuôi loại tôm giống này, vì tin rằng nó có tỷ lệ sống cao, tăng trọng nhanh hơn loài tôm sú cũ. Tại Tiền Giang, cũng đầu năm 2011 rộ lên phong trào nuôi tôm sú châu Phi, với con giống giá cao hơn giống tôm sú thường khoảng 30 đồng/con.
Ông Nguyễn Công Quốc, Trưởng phòng Quản lý nuôi - Chi cục Nuôi trồng Thủy sản Cà Mau cho biết, Chi cục cùng các ngành chức năng trong tỉnh đã kiểm tra một số cơ sở nuôi, thấy con giống tôm sú chân đỏ được bán với giá cao hơn bình thường. Tại các hộ nuôi tôm sú chân đỏ, chỉ có một số ít tôm xuất hiện chân đỏ và những cá thể này không có đặc điểm gì vượt trội tôm sú bình thường (về tốc độ tăng trưởng, kích cỡ, tỷ lệ sống, khả năng thích ứng môi trường…).
Theo đó, tôm sú chân đỏ chỉ là một loại đột biến trong quá trình nhân giống chứ không phải loài tôm mới có chất lượng tốt; việc người dân ồ ạt thả nuôi đã đẩy giá tôm giống lên cao. Cơ quan chức năng các địa phương đã nhiều lần thông báo cho người dân về sự xuất hiện của loại tôm mới này và khuyến cáo không nên kỳ vọng quá nhiều vào loại giống này.
Cần thận trọng hơn
Nếu không có sự hướng dẫn kịp thời của các ngành chức năng thì người dân sẽ lúng túng trong việc chọn con giống nuôi trồng; cùng đó là vấn đề dịch bệnh từ các đối tượng mới này du nhập vào càng khó kiểm soát hơn.
Cả nước hiện có rất nhiều trung tâm và trại sản xuất tôm giống, nhưng việc kiểm soát nhập nguyên liệu và sản xuất cung ứng ra thị trường còn lỏng lẻo. Đây là cơ hội để một số cơ sở, đại lý kinh doanh giống thủy sản đưa ra thị trường những sản phẩm không đảm bảo chất lượng.
Theo ông Võ Hồng Ngoãn, một người nuôi tôm có tiếng tại Bạc Liêu, một số địa phương thả nuôi loại tôm sú chân đỏ có cho kết quả khả quan, nhưng chưa ổn định; kiểm dịch chất lượng vẫn là vấn đề cần đặc biệt lưu ý.  Để nuôi tôm có hiệu quả, bên cạnh sự đầu tư cơ sở vật chất, vấn đề lựa chọn con giống hết sức quan trọng. Người nuôi cần chọn con giống tại những cơ sở tin cậy, có nguồn gốc rõ ràng, uy tín, đảm bảo chất lượng. Không chạy theo thị trường, thả nuôi những giống mới mà chưa được kiểm soát chất lượng. Đồng thời, các ngành chức năng, Sở NN&PTNT, Chi cục Nuôi trồng Thủy sản các tỉnh cần thường xuyên giám sát, kiểm tra các cơ sở đại lý kinh doanh giống, tuyên truyền, phổ biến kiến thức cho người nuôi về phòng chống dịch bệnh, cải tạo điều kiện nuôi trồng.
Ông Trưởng phòng Quản lý nuôi – Chi cục Nuôi trồng Thủy sản Cà Mau có lý khi khuyến cáo người nuôi: Cần cảnh giác trước những thông tin không đáng tin cậy về chất lượng sản phẩm, để có sự lựa chọn phù hợp, tránh “tiền mất tật mang”; cần chọn tôm giống chất lượng tốt để thả nuôi (mua tôm giống ở những cơ sở sản xuất kinh doanh quy mô lớn, có thương hiệu, nhãn mác rõ ràng); tốt nhất là chọn mua tôm giống đã qua kiểm tra chất lượng của ngành chức năng.
>> Theo các nhà chuyên môn, tôm sú chỉ có một loại với tên khoa học là Penaeus monodon. Hiện chưa có nghiên cứu khoa học nào chứng minh giống tôm sú khác, có chăng chỉ là sự khác biệt về nguồn gốc tôm bố mẹ. 

Bệnh phát sáng và bệnh đóng rong ở tôm


            1. Bệnh phát sáng ở tôm giống : 
             a. Nguyên nhân: Bệnh xảy ra trên tôm giống do bị nhiễm khuẩn Vibrio. Hai loại Vibrio chính gây bệnh gồm Vibrio harveyi và V. splendidus.
Khác với các loại Vibrio khác, hai loại Vibrio nêu trên có khả năng đề kháng rất mạnh đối với các loại kháng sinh thông thường.
b. Triệu chứng
- Ấu trùng tôm sau khi nở 10 - 15 ngày bắt đầu thấy xuất hiện những vệt sáng ở miệng, mang và hậu môn, sau đó sẽ lan sang toàn bộ đường ruột. Khi vi khuẩn phát triển mạnh sẽ lây lan toàn thân và phụ bộ, gây ra hiện tượng phát sáng toàn thân.
- Tôm yếu ớt, một số không định hướng được khi bơi, tôm có thể chết sau vài ngày, tỷ lệ chết cao. Tôm giống bị nhiễm mầm bệnh có thể sẽ phát bệnh khi chuyển sang nuôi ở các ao nuôi thịt.
c. Hướng giải quyết
Điều trị:
Dùng kháng sinh để xử lý nước, kết hợp trộn vào thức ăn, có thể dùng các loại như: FLOBACIN For Shrimp, NEOTETRACOL-STREP For Shrimp, NORFLOXACIN 300 For Shrimp, ENRO-C For Shrimp, EGC-MYCINE For Shrimp. Nên dùng thêm các loại thuốc bổ trộn vào thức ăn để tăng sức kháng bệnh.
Phòng bệnh :
- Vệ sinh thật kỹ bể ấp trứng và bể ương, lọc và sát trùng kỹ nguồn nước. Có thể sử dụng BIOXIDE For Shrimp, POVIDINE For Shrimp, BIO-TECH For Shrimp, IODINE COMPLEX For Shrimp để khử trùng nước trong các trại sản xuất tôm giống.
Thường xuyên siphon đáy bể ương để loại bỏ thức ăn thừa, phân tôm, xác tôm chết vì chúng là môi trường dinh dưỡng giúp cho vi khuẩn gây bệnh gia tăng về số lượng.
2. Bệnh đóng rong
a. Nguyên nhân
Do dinh dưỡng kém nên tôm hoạt động yếu, không thể tự làm sạch hoặc lột vỏ không thường xuyên, hoặc ao nuôi bị nhiễm bẩn do cho ăn dư thừa, các chất dinh dưỡng trong thức ăn sẽ tạo điều kiện cho nguyên sinh động vật như Zoothamnium sp., Vorticella sp., tảo sợi, nấm, vi khuẩn Leucothrixsp., Vibrio sp., Flavobacterium sp., phát triển và bám vào vỏ tôm gây bệnh. Nguồn nước quá đục, có nhiều chất hữu cơ lơ lửng hoặc nuôi với mật độ cao cũng góp phần giúp bệnh xảy ra.
b. Triệu chứng
Vỏ tôm dơ bẩn, có màu xanh, đen hoặc trắng đục, tôm hoạt động yếu, nổi lên hay bơi dọc theo bờ, mang tôm thường chuyển sang màu sẫm. Một số con bị đóng rong nhẹ, ăn bình thường sẽ khỏi bệnh sau khi lột vỏ. Tác hại chủ yếu của bệnh đóng rong là cản trở hô hấp, bắt mồi và di chuyển, tôm bệnh thường tập trung tại các nơi có nhiều oxy, di chuyển chậm. Tôm có thể bị chết khi hàm lượng oxy hòa tan trong ao thấp.
c. Hướng giải quyết
Khi tôm bị bệnh đóng rong có nghĩa là do chất lượng nước nuôi xấu và bị nhiễm khuẩn. Vì vậy nên vừa xử lý môi trường vừa điều trị trên tôm.
- Thay nước sạch (10 - 20% lượng nước trong ao mỗi lần) để kích thích tôm lột xác.
- Tăng hàm lượng oxy hòa tan trong ao nuôi bằng việc duy trì độ trong thích hợp, tăng cường quạt nước và quản lý tốt việc cho ăn.
- Vớt hết các loại tảo nổi lên trên bề mặt ao nuôi.
- Cho ăn đúng mức để tránh ô nhiễm đáy ao, đồng thời xử lý ao bằng BACIFLORA For Shrimp, BIO-BACTER For Shrimp, BIO-NITROBAC For Shrimp, BIO-YUCCA For Shrimp để hấp thu khí độc NH3 và phân hủy chất hữu cơ dư thừa.
- Trộn men tiêu hóa BIOZYME For Shrimp cho tôm ăn thường xuyên.
- Trộn các loại thuốc bổ như: BIO-FAC For Shrimp, BIOVITA For Shrimp, BIOTIC For Shrimp, BIOZYME For Shrimp, VITAMIN C 10% For Shrimp, BIO-ACTIVIT For Shrimp để tăng sức kháng bệnh, giúp tôm luôn khỏe mạnh, mau lớn.
- Xử lý nguồn nước bằng: BIOXIDE For Shrimp, POVIDINE For Shrimp, IODINE COMPLEX For Shrimp để diệt các loại mầm bệnh trong ao.

Cách phòng một số bệnh do vi khuẩn ở tôm sú


Vi khuẩn là tác nhân thường xuyên có mặt trong ao nuôi, cũng có thể gây nhiều bệnh nguy hiểm khác nhau cho các giai đoạn phát triển của tôm. Một số bệnh do vi khuẩn gây ra ở tôm nuôi như: bệnh đứt râu, bệnh cụt đuôi, hoại chi; bệnh đốm đen, đốm nâu, bệnh phát sáng, bệnh vi khuẩn dạng sợi,...
Bệnh vi khuẩn phát sáng:
Các giai đoạn bị nhiễm: trứng, ấu trùng, hậu ấu trùng, tôm trưởng thành.

Triệu chứng: ấu trùng yếu đi và có màu trắng đục. Tôm con và tôm trưởng thành bị nhiễm bệnh phát ra ánh sáng màu xanh lục liên tục khi ta quan sát trong chỗ tối. Khi nhìn dưới kính hiển vi, các mô bên trong của ấu trùng này chứa đầy các vi khuẩn bơi rất nhanh. Tình trạng tôm bị nhiễm bệnh sẽ dẫn đến tử vong cao lên gần 100% số bị nhiễm.

Biện pháp phòng ngừa: tránh sự xâm nhập của vi khuẩn phát quang vào trong hệ thống ấp trứng (sử dụng nước nhiễm xạ cực tím, xử lý bằng Clo,...).
Chấp hành nghiêm ngặt các quy trình vệ sinh trước và trong quá trình nuôi.
Lọc sạch cặn và tạp chất ở đấy bể nuôi, hồ nuôi vì đó là môi trường tốt cho vi khuẩn sinh trưởng. Tẩy trùng các ấu trùng bị nhiễm trước khi loại bỏ chúng.

Cách chữa trị: Mỗi ngày phải thay nước từ 80 – 90%.
Bệnh thoái hóa vỏ, bệnh đốm nâu, bệnh hoại chi

Các giai đoạn bị nhiễm: ấu trùng, hậu ấu trùng, tôm con, tôm trưởng thành

Triệu chứng và dấu hiệu: xuất hiện vết thoái hóa từ hơi nâu ngả sang đen trên vỏ, phần bụng, phần phụ đầu, đuôi, mang và các chi.
Vết phỏng chứa dịch gelatin màu xanh tím có thể phát triển trên vỏ và phần bụng, phần cuối đuôi, phần phụ đầu. Vết phỏng này có thể lan sang phần bên dưới 2 bên vỏ, tạo thành một khối u.
Ở giai đoạn ấu trùng, tôm con, tôm trưởng thành, các chi bị nhiễm bệnh có hình dạng như đầu mẩu tàn thuốc.

Phương pháp phòng ngừa: sử dụng nước có chất lượng tốt.
Giảm hàm lượng các chất hữu cơ trong nước đến mức thấp nhất bằng cách loại bỏ các chất cặn bã, tôm chết, vỏ tôm đã thay vì đó là nơi ẩn náu của vi khuẩn.
Cho ăn đầy đủ.
Giảm tối đa việc vớt và thả tôm, tránh nuôi với mật độ quá lớn (trên 30 con P15/m2).
Tránh gây thương tích trên vỏ tôm

Cách chữa trị: kích thích sự thay vỏ của tôm. Thay nước sạch, dùng vôi sống CaCOđể lắng tụ chất vẩn hữu cơ và tăng cường sục khí.
Tăng sức đề kháng cho tôm bằng cách bổ sung Vitamin C hàng ngày vào thức ăn cho tôm.
Có thể dùng một số kháng sinh liều lượng 40 – 50 mg/l thức ăn, liên tục trong 4 – 5 ngày. Dùng BKC phun trực tiếp xuống ao với liều lượng 0,4 – 0,5 ml/m3 kết hợp mở máy quạt nước hoặc sục khí.
Riêng bệnh phân trắng thường phát sinh khi nuôi tôm trên 60 ngày tuổi, nguyên nhân do nhiễm vi khuẩn Vibrio.
Để phòng bệnh cho tôm cần phải giữ môi trường nước ổn định, giảm hàm lượng hữu cơ trong ao và đáy ao bằng các loại men vi sinh phân hủy chất thải, giảm sinh khối tảo bằng các hóa chất diệt tảo.
Khi tôm bị bệnh cần thay nhiều nước, dùng Riato liều lượng 5 – 10 g/kg thức ăn cho ăn liên tục từ 3 – 5 ngày.

Báo động chất lượng tôm giống


Dịch bệnh xảy ra trên tôm trong thời gian vừa qua đang gióng lên hồi chuông báo động về chất lượng tôm giống ở nước ta hiện nay.

“Nhất giống” vẫn chưa đủ
Người nuôi tôm thường có câu: “Nhất giống, nhì thì, tam tri, tứ thủy” để nói tầm quan trọng số một của con giống trong vụ nuôi sau đó đến thời tiết mùa vụ (thì), kiến thức về nuôi tôm (tri) và chất lượng nước (thủy). Điều đó càng được khẳng định khi thời gian qua tôm bị chết tại nhiều địa phương trong cả nước với đủ hình thức nuôi từ quảng canh đến thâm canh, cả tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Theo thống kê và báo cáo của các địa phương, có nhiều nguyên nhân làm cho tôm chết trong đó chủ yếu chất lượng con giống thả nuôi không đạt yêu cầu. Vì vậy, quản lý chất lượng tôm giống từ khâu đầu vào là tôm bố mẹ (khai thác hoặc nhập khẩu), đến đầu ra là chất lượng postlarvae phải là khâu quan trọng mấu chốt trong chuỗi sản xuất từ con giống đến thành phẩm xuất khẩu.
Người nuôi hoang mang về chất lượng tôm giống hiện nay - Ảnh: Phan Thanh Cường
Năm 2011, thống kê cả nước có 656.426 ha nuôi tôm, trong đó có 623.377 ha là nuôi tôm sú và 33.049 ha nuôi TTCT. Chỉ tính riêng với TTCT, một đối tượng đang được nuôi nhiều hiện nay theo tính toán mỗi năm cần khoảng 30 tỷ con giống sạch bệnh. Tuy nhiên, nguồn TTCT bố mẹ sạch bệnh được nhập khẩu có chất lượng tốt chỉ đáp ứng được phân nửa nhu cầu. Một phần không nhỏ trong số con giống có chất lượng tốt là do các doanh nghiệp chủ động sản xuất phục vụ cho các trại nuôi của doanh nghiệp nhằm đảm bảo nguồn nguyên liệu xuất khẩu. Vì vậy, con giống sạch bệnh trở nên khan hiếm, người nuôi phải tìm các nguồn cung cấp giống khác ẩn chứa nhiều rủi ro bởi không được kiểm soát về chất lượng. Khi người nuôi sử dụng tôm giống chất lượng thấp (cả tôm sú và TTCT) nếu không bị chết thì tôm cũng chậm lớn và mắc nhiều bệnh, do đó phải sử dụng nhiều thuốc và hóa chất để trị bệnh nên người nuôi có lãi ít còn doanh nghiệp khi mua phải tôm nhiễm hóa chất chỉ còn biết “kêu trời”.

Giải pháp
Nghề sản xuất tôm giống của nước ta hiện nay đang đứng trước nhiều khó khăn như sự khan hiếm về nguồn tôm bố mẹ (chủ yếu là tôm sú bằng hình thức khai thác ngoài tự nhiên). Nguồn giống này khó kiểm soát được chất lượng, nhất là sự thoái hóa, cận huyết. Nguồn TTCT bố mẹ chủ yếu là nhập khẩu từ các nước như: Thái Lan, Singapore, Indonesia và Mỹ. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có cơ sở nào để đánh giá chất lượng thực sự của nguồn tôm bố mẹ nhập khẩu này ngoài niềm tin của các doanh nghiệp nhập khẩu với nhà cung cấp thông qua sức sinh sản và tỷ lệ sống của tôm khi chuyển về Việt Nam. Trong khi đó việc sản xuất tôm sú giống cũng gặp nhiều khó khăn như giá cả đầu vào tăng từ giá tôm bố mẹ, thức ăn, thuốc. Đặc biệt, theo một chủ doanh nghiệp sản xuất tôm giống có tiếng ở Bạc Liêu: Hiện, trứng Artemia làm thức ăn cho tôm Postlarvae có giá rất cao nên nhiều cơ sở không sử dụng loại thức ăn quan trọng này (nhằm giảm chi phí) cũng là nguyên nhân khiến cho chất lượng tôm giống giảm đáng kể. Bên cạnh đó, nhiều cơ sở cho tôm bố mẹ sinh sản nhiều lần/năm làm cho chất lượng con giống ngày càng kém đi.
Trước thực trạng trên, nhiều doanh nghiệp trong nước, đặc biệt các doanh nghiệp lớn, đang chủ động đảm bảo con giống chất lượng tốt bằng cách đầu tư vốn và kỹ thuật vào sản xuất khép kín, tuy nhiên đây chỉ là con số ít. Còn lại đa số những người nuôi tôm, những người sẽ đóng góp chính vào con số xuất khẩu 6,5 tỷ USD của ngành thủy sản vẫn đang “loay hoay” tự tìm kiếm nguồn giống có chất lượng. Và những gì đã diễn ra trong thời gian qua cho thấy hiện đang còn nhiều bất cập trong việc quản lý chất lượng con giống, rất cần sự quản lý chặt chẽ hơn từ các cơ quan quản lý nhà nước để ngành tôm phát triển bền vững, đóng góp vào thành công của ngành thủy sản Việt Nam nói chung.
>> Năm 2011 vừa qua, lần đầu tiên Trung tâm nhân giống (thôn Sơn Hải, Phước Dinh, Thuận Nam, Ninh Thuận), đã cho ra đời 500 cặp tôm sú giống bố mẹ sạch bệnh, cung cấp cho các trại giống trong tỉnh và ở Tây Nam bộ. Đây là kết quả hợp tác của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I và Công ty Moana, là một công ty cải tiến gen di truyền học làm về tôm sú, với nguồn gen di truyền sạch bệnh lớn nhất và đa dạng nhất cho tôm sú.
Minh Thành

Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2012

NUÔI TÔM SINH THÁI: RỪNG - TÔM KẾT HỢP

     Do trong quá trình nuôi tôm thải ra các chất hữu cơ với thời gian khá dài (gần 10 tháng) vì vậy chúng ta cần phải sên vét lớp bùn dưới đáy ao để tránh hiện tượng dơ đáy và phát sinh các khí độc như: NH3, H2S… đồng thời tạo nên lớp đất mới cho tảo và các sinh vật phát triển nhằm làm giàu dinh dưỡng trong ao và tạo thức ăn cho tôm
 
I. Cách thức sên vuông:

+ Vét lớp bùn dưới đáy ao với bề sâu khoảng 20cm – 30cm  tránh vét quá sâu vì vùng đất ngập mặn có tầng phèn tiềm tàng hoạt động nằm cách mặt đất chỉ khoảng 50Cm.

+  Trong quá trình sên khi vét đến 1/3 chiều dài vuông ta sẽ vét sâu khoảng 40 – 60 Cm so với đáy ao với chiều dài khoảng 30-60m tùy theo chiều dài vuông tôm dài hay ngắn (Nếu trường hợp vuông tôm quá dài thì ta vét sâu 40cm - 60cm ở khoảng 1/3 vuông tôm và ở 2/3 vuông tôm), đồng thời vét sâu 40cm ở các góc ao. (Nhằm tạo nơi cư trú cho tôm khi ta xổ vuông đến cạn nước).

+ Trường hợp vuông quá cạn thì ta phải đưa cơ giới (xáng) vào cải tạo ao nuôi.

II. Xử lý nước

    Sau khi sên vét đáy ao xong thì phèn, chất cặn bã… tích tụ ở đáy ao khá nhiều mà những chất này rất có hại đối với tôm trong quá trình nuôi. Vì vậy chúng ta cần phải xử lý nước cho đúng phương pháp nhằm làm sạch đáy ao như sau:
hợp sên vuông cạn dưới 30Cm bằng tay thì ta chỉ cần tháo nước ra vô nhiều lần cho đến khi đáy ao sạch nhằm tạo lớp phù sa bồi lắng để hạn chế và ngăn ngừa việc xì phèn từ đáy ao đồng thời tạo môi trường nước trong ao tốt và phù hợp cho tôm sinh trưởng và phát triển.

+ Trong trường hợp vuông được cải tạo sâu > 40Cm bằng tay hoặc cơ giới (xáng) thì ngoài việc tháo nước ra vô nhiều lần ta còn phải kết hợp sử dụng vôi CaCO3 với liều lượng 15-20 kg/1000m3 nước và trong những cơn mưa đầu mùa thì ta bón 15-20Kg/1000m2 bờ bao nhằm tránh hiện tượng trôi phèn xuống ao làm giảm pH trong ao nuôi tôm.

     Phương pháp lấy nước: Để rửa sạch phèn và các chất cặn bã dưới đáy ao sau khi sên hay trong khi nuôi tôm ta cần phải tạo dòng chảy trong ao cho thật mạnh trong vuông tôm bằng cách để cho mực nước bên ngoài vuông tôm cao hơn mực nước bên trong vuông tôm từ (7 tấc) 70cm - 1m thì ta mới tháo hết cống (giật hết bửng 1 lần) không hạ (xuống) Lú cho nước tống thật mạnh vào ao cho đến khi nước chảy giảm mạnh thì ta mới hạ(xuống) Lú. Khi xả nước ra ta chỉ việc xả bình thường đồng thời hạ (xuống) Lú để thu hoạch tôm.

III. Diệt cá tạp:
   
      Tùy trường hợp trong vuông có nhiều cá dữ hay không mà ta diệt cá bằng các hình thức sau: Sử dụng thuốc cá dây (không sử dụng saponin) với liều lượng 5-7kg/1000m3 nước (phải biết rỏ nguồn gốc dây thuốc cá), hoặc diệt cá bằng cách như: Câu, giăng lưới… Nên giữ lại các loài cá: Đối, Phi, Nâu… để làm sạch môi trường nước đồng thời có thêm thu nhập phụ.

IV. Chọn giống:

Chọn những con giống khoẻ không nhiễm Virut từ các trại sản xuất có uy tín. Tốt nhất nên thả tôm cỡ PL12- PL15. Phương pháp chọn giống như sau:

-  Phương pháp cảm quan:

     Tôm giống khoẻ có màu sắc trong sáng, không thương tích, đều cỡ, hoạt động nhanh nhẹn. Kích cỡ nhỏ nhất trên 1,2cm. Tôm bột đạt 15 ngày tuổi thường được gọi là PL15. Tôm  thon, dài, đuôi xoè hình quạt khi lội  râu khép  hình chữ V. Có thể đánh giá sức khoẻ tôm bằng cách dùng thau nước cho tôm vào, quay tròn nước, tôm khoẻ sẽ bám vào thành thau, lội ngược dòng nước; tôm yếu sẽ bị gom vào giữa thau, khi gõ nhẹ vào thành thau, tôm khoẻ sẽ phản ứng búng nhảy nhanh; ngoài ra có thể kiểm tra bằng "sốc" độ mặn.

-  Phương pháp gây sốc bằng độ mặn:

     Lấy 100 con tôm giống và nước ở trại giống cho vào ½ ly nước và cho nước ngọt vào ½ ly nước còn lại để thời gian 45 phút – 1 giờ. Nếu tôm chết dưới 5 con thì có thể chọn giống đó về thả nuôi.

V.  Thả và luyện giống:

    Luyện giống:

    Điều quan trọng là chất lượng nước ở trong ao và nước trong túi đựng con giống phải gần giống nhau về độ mặn, nhiệt độ, độ PH,... Thông thường thì nước trong bao tôm và nước sẽ chênh lệch nhâu rất nhiều về nhiệt độ, độ măn, độ pH… Tốt nhất là trước khi thả giống xuống vuông tôm ta phải thuần độ mặn.

-  Phương pháp thuần (độ mặn, pH, nhiệt độ…)  tại nhà: Cho tất cả tôm và nước trong bao tôm vào thùng nhựa 60 lít sau đó ta lấy nước trong vuông tôm đổ (5 phút đổ 1 lít) vào thùng nhựa có chứa tôm giống, hoặc dùng bọc nước treo trên miệng thùng và cho nước chảy từ từ vào thùng. Đến khi nào nước đầy thùng thì ta có thể tiến hành thả tôm xuống ao nuôi tôm.

+ Ví dụ:

vào mùa mưa đem 10 bao tôm giống về ta cho vào thùng 60 lít đồng thời lấy 40 lít nước trong vuông cho vào thùng 60 lít đang chứa tôm giống ( 5 phút đổ 1 lít) đến khi hết 40 lít nước trong vuông thì ta có thể tiến hành thả tôm xuống vuông.

Vào mùa nắng ta chỉ cần áp dụng phương pháp 1:1 ( trong bao tôm có bao nhiêu lít nước thì ta cho bấy nhiêu lít nước trong vuông tôm vào thùng thuần tôm).

- Nếu tôm không có thuần (độ mặn, pH, nhiệt độ…) tại nhà thì khi đem giống về đến vuông nuôi tôm phải tiến hành thuần nhiệt độ bằng cách thả bao tôm giống xuống vuông khoảng 20-30 phút trước khi mở miệng bao.

    Thả giống:

     Nên thả tôm trên gió, tốt nhất là thả tôm ở khoảng ½ chiều dài vuông tôm cho đến hậu vuông (để tránh lúc xả nước tôm giống bị cuốn trôi ra khỏi ao), thả lúc sáng sớm hoặc chiều tối ( không thả tôm giống lúc trời mưa lớn).

    Khuyến cáo: Nên thả giống 1 tháng 1 lần (số lượng giống nhiều ít tùy theo diện tích vuông của mỗi gia đình) để chúng ta có thể thu hoạch tôm được quanh vụ.

VI. Quản lý môi trường trong vuông tôm:

     Do hình thức nuôi tôm của ta là nuôi quảng canh rừng tôm kết hợp nên rất khó để quản lý các yếu tố như: Độ kiềm, oxy hòa tan, nhiệt độ, khí độc NH3 và H2S… vì vậy ta chỉ có thể quản lý được các yếu tố như: pH, độ trong và màu nước.

Trong vuông tôm là điều kiện tốt cho các loài vi sinh vật và tảo phát triển, vì vậy tùy theo loài tảo nào chiếm đa số thì sẽ làm cho màu nước khác nhau và cũng làm ảnh hưởng khác nhau đến tôm nuôi:

+       Nước màu vàng nâu: Chủ yếu là tảo khuê gây ra, đây là tảo làm thức ăn tốt cho tôm.

+       Nước màu xanh nhạt: do các loài tảo lục gây nên đây cũng là thức ăn tốt cho tôm

+       Nước màu xanh đậm: do tảo lam gây ra, loại tảo này không tốt cho tôm sinh trưởng (tôm chậm lớn) và gây nên hiện tượng tôm có màu xanh. (Xử lý bằng cách thay 30-50% nước trong ao)

+       Nước có màu nâu đen: Do tảo giáp gây ra. Tảo này có thể làm cho môi trường nhiễm bẩn, rất có hại đối với tôm nuôi. (xả nước ra vô liên tục để làm sạch môi trường kết hợp với dùng vợt vớt các Lap Lap trong ao đem lên bờ).

+       Nước màu vàng: Do tảo vàng gây nên, làm cho môi trường thiếu dinh dưỡng nên tôm sẽ chậm lớn và tỷ lệ sống thấp. (Xử lý bằng cách thay 30-50% nước trong ao và bón vôi CaCO3 với liều lượng 15- 20kg/1000m3 nước)

+       Nước trong suốt hoặc có màu vàng rỉ sét: Do đất phèn tạo thành nên pH rất thấp. Tảo ít phát triển, tôm thiếu thức ăn, chậm lớn và tỷ lệ sống thấp. (Dùng phương pháp thay nước ra vô liên tục để rữa phèn và chứa nước trong vuông thật cao để tảo phát triển)

Để ổn định chất lượng nước trong ao tôm tao cần phải chú ý đến nguồn nước lấy vào, không lấy nước vào ao khi nước ngoài kênh (sông) quá “cáu đục”, phải xả nước mặt trong vuông tôm đồng thời bón vôi CaCO3 15-20kg/1000m2 trên bờ bao vào những lúc trời mưa lớn. Tốt nhất nên sử dụng vôi CaCO3 với liều lượng 15- 20kg/1000m3 sau khi kết thúc đợt thu hoạch nhằm diệt tạp, khử trùng, kích thích tảo phát triển và để tránh tôm có thể bị sốc do pH thay đổi.

VII.  Quản lý thức ăn trong vuông tôm:

Do ta nuôi dưới hình thức rừng tôm kết hợp với mật độ dưới 15 con/m2 nên ta không sử dụng thức ăn viên (công nghiệp) mà ta chỉ sử dụng nguồn thức ăn cho tôm chủ yếu là thức ăn tự nhiên (tảo và các vi sinh vật phù du) sẵn có trong vuông tôm. Để bổ sung thức ăn cho tôm nuôi ta có thể cho vào vuông tôm các loại lá cây như: lá Đước, lá Mắm (có hàm lượng đạm cao nhất), Dà, Giá, cỏ dại, dây leo… Vì vi khuẩn phân hủy các loại lá này là thức ăn tốt cho tôm nuôi, đồng thời đây cũng là nguồn phân xanh giúp cải thiện màu nước trong vuông tôm và tạo điều kiện cho các loài tảo có lợi sinh trưởng và phát triển. Nhưng cần phải lưu ý nếu thả các nhánh cây này quá nhiều với mật độ dày, sẽ làm giảm lượng oxy hòa tan trong nước và môi trường vuông tôm sẽ bị ô nhiễm do thối nước, vì vậy ta chỉ cho các lá cây vào ao tôm với mật độ hợp lý (15-30 m cắm 1 nhánh dọc theo chiều dài kênh mương).

VIII.   Quản lý dịch bệnh:

Đây là một trong những việc rất khó trong quá trình nuôi tôm rừng, vì ta nuôi với mật độ thấp trong diện tích rộng nên không thể dựa vào các phương pháp xử lý bằng thuốc và hóa chất mà ta chỉ vận dụng qui trình sinh học và cơ học vốn có ở trong vuông tôm và khống chế dịch bệnh qua các yếu tố đầu vào. ở đây chúng tôi chỉ đưa ra một số lưu ý để người nuôi tôm có thể hạn chế được dịch bệnh trong quá trình nuôi tôm:

+   Cải tạo vuông đúng kỹ thuật

+   Chọn và thả những giống tốt

+    Vận dụng phương pháp lấy và xổ nước qua cống xổ( nêu ở mục 1) để làm sạch môi trường nước.

+    Trong trường hợp tôm gặp sự cố ta phải hạ thấp mực nước trong vuông tôm xuống còn 1/3 trong thời gian từ 15-30 ngày đồng thời dùng phương pháp thủ công (lượm, nhặt các con tôm bệnh) nhằm để tránh lây lan dịch bệnh.

IX.   Thu Hoạch và bảo quản tôm sau thu hoạch:

     Thu hoạch:

     Sau khi tôm đạt từ 4-5 tháng tuổi thì tôm sẽ di chuyển ra biển theo chu kỳ sinh trưởng của tôm, dựa vào yếu tố này mà ta có thể thu hoạch tôm bằng các hình thức như: đặt đuôi chuột, xổ tôm qua cống xổ… Nhưng để có thể thu hoạch cũng như lấy và xả nước theo ý muốn thì ta cần phải chú trọng vào việc làm cống xổ  như sau:

+ Nên đổ cống xổ bằng bê tông cốt thép, chiều dài của cống càng dài càng tốt (tùy theo điều kiện kinh tế của mỗi gia đình) nhưng chiều dài tối thiểu của cống xổ là 12m.

+ Chiều dài tối thiểu bên ngoài (phía đuôi lú nằm trên cống khi xổ) phải dài hơn chiều dài của lú xổ tôm nhằm để tránh tình trạng “Treo Lú” khi xổ tôm thu hoạch.( chiều dài từ rảnh Lú đến cuối miệng ngoài của cống ít nhất là 8m) 

+ Để có thêm các giống loài khác vào vuông sinh sống ta phải lấy nước vào ban đêm, cho các ấu trùng: tôm thẻ, tôm bạc, tôm chì (đất), cá, cua… theo dòng nước vào vuông tôm. (phương pháp lấy nước và xổ vuông giống như phương pháp đã nêu ở mục 1)
 
     Khuyến Cáo:  Thời gian thu hoạch nên bắt đầu từ ngày 12 Âm lịch (hoặc ngày 28 Âm lịch) sau 2 ngày xổ tôm ta nên nghỉ xổ từ 1-2 ngày (để cho tôm lột có thời gian làm vỏ) sau đó xổ tiếp đến khi nào nước ngoài kênh (Sông) “cáo đen” thì ngưng thu hoạch.

-    Khi thu hoạch tôm lên bờ, đổ tôm lên bạt nilon để phân loại tôm, cua, cá… ra từng loại riêng biệt.

-    Sau khi phân loại rửa tôm lại bằng nước sạch.

-    Vớt nhẹ tôm ra và đưa tôm vào thùng xốp cách nhiệt để muối tôm với tỷ lệ 1 tôm 1 đá.

Chú ý: các thao tác lựa tôm, muối tôm… phải thật nhẹ nhàng, tránh trường hợp bị long đầu, xây xác.

     Chỉ cần chúng ta vận  dụng tốt các giải pháp kỹ thuật này trong môi trường thiên nhiên rất thuận lợi ở vùng rừng ngập mặn thì bà con có thể nuôi tôm được quanh vụ để tăng thêm thu nhập. ( thay vì phương pháp nuôi truyền thống chỉ từ 1-2 vụ)

*    TUYỆT ĐỐI KHÔNG ĐƯA TẠP CHẤT VÀO TÔM NGUYÊN LIỆU.

*    KHÔNG SỬ DỤNG THUỐC, HÓA CHẤT TRONG QUÁ TRÌNH NUÔI VÀ BẢO QUẢN TÔM NGUYÊN LIỆU.

*    TUYỆT ĐỐI KHÔNG SỬ DỤNG THỨC ĂN CÔNG NGHIỆP.

KS Trần Nhật Trường -    Kính chúc quý bà con có được một vụ mùa thành công.

Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2012

KỸ THUẬT NUÔI TÔM TRÊN RUỘNG LÚA


1/ Thiết kế ruộng nuôi
- Diện tích ruộng lúa: tốt nhất là 4.000 - 5.000 m2
- Ao lắng: 1.000 m2 (khoảng 1/5), hiện nay khu vực Cần Giờ, Nhà Bè nông dân hầu như không sử dụng ao lắng cho nuôi tôm trên ruộng lúa.
- Mương bao: bắt buộc phải có vì giúp cho tôm sú tránh nắng vào ban ngày, dễ kiểm tra, kiểm soát tôm tăng trọng, lượng thức ăn… hiện nay nhiều hộ nông dân không quan tâm đến việc thiết kế mương bao. Mương có thể thiết kế bao quanh ruộng lúa, hình xương cá hoặc một bên.
- Thiết kế góc ao ương hoặc vèo ương ngay trên ruộng, hiện nay nông dân chưa áp dụng việc ương giống trước khi thả nuôi, hầu hết khi mua giống post 15 là thả ngay ra ao ương nên tỉ lệ hao hụt khá cao. Nên ương ngay trên ruộng hoặc vèo từ 10 - 15 ngày trước khi thả ra ruộng nuôi.


2/ Cải tạo ruộng nuôi
- Sau khi thu hoạch lúa, dọn hết gốc rạ, cho nước vào ruộng ngâm từ 5 - 7 ngày, sau đó tháo nước ra và cho ra vô tự nhiên để rửa phèn và vệ sinh mặt ruộng, đối với mương bao cần hút hết lớp bùn đáy mương, sửa lại bờ cho chắc chắn. Nếu có điều kiện nên lót bạt quanh ruộng.
- Phơi ruộng từ 2 - 3 ngày cho vừa se mặt ruộng là được, sau đó dùng vôi (CaO) rải khắp mặt ruộng và mương bao với liều lượng 50 - 100 kg/1.000 m2 mặt ruộng.
- Trong thời gian xử lý mặt ruộng đồng thời lấy nước vào ao lắng qua túi lọc trước khi cho vào ruộng từ 3 - 4 ngày, độ mặn tốt nhất 8 - 12%o.
3/ Xử lý ruộng trước khi thả giống tôm
- Dùng Chlorine nồng độ 30 ppm xử lý trong ao lắng trước khi đưa vào ruộng 3 ngày, thực hiện đến khi mực nước trong mặt ruộng đạt mức 0,4 m.
- Dùng thuốc diệt cá hòa với nước tạt khắp ao theo hướng dẫn sử dụng trên bao bì của nhà sản xuất.
- Gây màu nước: sử dụng phân urê 1,5 - 2 kg và 0,5 kg phân DAP/1.000 m3 nước trong ruộng nuôi (tốt nhất nên bón phân vào sáng sớm), sau vài ngày khi thấy nước có màu xanh đọt chuối, màu xanh vỏ đậu hay màu trà nâu nhạt là được, lúc này có thể thả giống.
- Trước khi quyết định thả giống cần kiểm tra 2 chỉ tiêu sau: độ mặn phải đạt từ 5 - 10%o, pH phải đạt 7,5 - 8,5.
n Nếu pH < 7,3: tăng cường thêm vôi từ 3 - 5 kg/1.000 m3 nước, hoặc Super-Ca 20 kg/1.000 m3 nước.
n Nếu pH > thì sử dụng nước từ ao lắng đã được xử lý thay vào khoảng 10 - 30% mỗi ngày đến khi đạt yêu cầu.
4/ Thả giống
- Thời điểm thả giống tốt nhất là tháng 3 DL.
- Mật độ thả giống:
n Mật độ ương: ương trong vèo hoặc sử dụng một góc ruộng ương tôm giống 10 - 15 ngày trước khi thả ra ruộng nuôi: mật độ ương 100 con/m2, tỉ lệ hao hút cho phép 5%.
n Mật độ thả nuôi: sau 10 - 15 ngày thả tôm ra ruộng nuôi đảm bảo mật độ 7 - 10 con/m2.
5/ Chăm sóc - Quản lý
- Thức ăn: hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại thức ăn công nghiệp, tùy điều kiện nông dân lựa chọn, tuy nhiên nên chọn những loại sản phẩm có thương hiệu rõ ràng, có công bố chất lượng theo qui định. Lượng thức ăn, kích cỡ viên thức ăn theo tuổi phát triển của tôm được hướng dẫn trên bao bì.
- Thời gian và số lần cho ăn: nên cho ăn 4 lần/ngày: 5 - 6 giờ sáng, 11 - 12 giờ trưa, 5 - 6 giờ chiều, 9 - 10 giờ đêm.
- Cách cho ăn: các góc ruộng nên đặt máng ăn để kiểm tra lượng thức ăn thừa hay thiếu nhằm điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Ban ngày nên cho thức ăn nhiều ở mương bao, ban đêm rải nhiều trên mặt ruộng. Sau 2 - 3 giờ kiểm tra máng ăn, kết hợp kiểm tra thức ăn trong ruột tôm. Nếu đường ruột đều, liên tục, phản ứng nhanh thể hiện tôm no, khỏe.
Quản lý chất lượng nước trong ruộng tôm: hàng tuần nên định kỳ đo độ pH, độ mặn, nhiệt độ nước một lần lúc 6 - 7 giờ sáng và 3 - 4 giờ chiều.


KỸ THUẬT NUÔI TÔM SÚ CÔNG NGHIỆP, BÁN CÔNG NGHIỆP


1/ Thiết kế ao nuôi
- Diện tích ao: 2.000 - 3.000 m2
- Ao lắng: 500 m2 - 1.000 m2
- Đối với khu vực Nhà bè, Cần Giờ nên làm ao nổi, đào sâu khoảng 0,4 m đắp bờ đảm bảo độ sâu 1,2 m và xung quanh được lót bạt. Giữa ao có khoảng sâu hơn mặt ao 0,2 m để thu chất thải trong quá trình nuôi.
2/ Cải tạo ao
- Hút hết lớp bùn đáy ao, phơi nắng đến khi se mặt ao là được.
- Dùng vôi (CaO) rải khắp mặt ao, xung quanh bờ 50 - 100 kg/1.000 m2 ao.
- Nước lấy qua ao lắng và được xử lý bằng Chlorine nồng độ 30 ppm 3 - 5 ngày trước khi đưa qua ao nuôi.
- Sau khi đưa nước qua ao nuôi dùng thuốc diệt cá để xử lý (có bán trên thị trường và hướng dẫn sử dụng trên bao bì).
- Gây màu nước: sử dụng phân urê 1,5 - 2 kg và 0,5 kg phân DAP/1.000 m3 nước trong ruộng nuôi (tốt nhất nên bón phân vào sáng sớm), sau vài ngày khi thấy nước có màu xanh đọt chuối, màu xanh vỏ đậu hay màu trà nâu nhạt là được, lúc này có thể thả giống.
- Đặt hệ thống quạt: Đối với ao nuôi tôm bán công nghiệp, công nghiệp phải có hệ thống quạt nước để tăng cường lượng oxy hòa tan trong ao nuôi, đồng thời giúp cho chất thải tập trung giữa ao và đưa ra ngoài bằng hệ thống siphon đáy, quạt đặt cách bờ 3 - 5 m.
3/ Thả giống
- Thời điểm thả giống: Đối với khu vực huyện Cần Giờ có thể nuôi tôm 2 vụ: mùa khô đầu tháng 3 DL, mùa mưa tháng 7 DL (vì lúc này độ mặn ít thay đổi lớn khoảng 7 - 8%0) khu vực Tam Thôn Hiệp, Lý Nhơn, An Thới Đông. Riêng xã Hiệp Phước huyện Nhà Bè chỉ nên nuôi một vụ vào mùa khô.
- Cỡ giống thả: P15 - P25, đối với nuôi ao không cần ương, có thể thả giống trực tiếp ra ao.
- Mật độ thả giống: Nếu chọn phương pháp nuôi bán công nghiệp thì mật độ thả từ 15 - 20 con/m2, nếu chọn phương pháp nuôi công nghiệp thì mật độ thả 20 - 30 con/m2. Hiện nay nhiều hộ thả nuôi mật độ quá dày 40 - 50 con/m2 không hiệu quả thời gian nuôi dài, gây ô nhiễm ao nuôi do phải sử dụng nhiều thức ăn.
4/ Chăm sóc - Quản lý
Đối với nuôi tôm trên ao theo hình thức bán công nghiệp, công nghiệp đòi hỏi phải chăm sóc và quản lý ao nuôi kỹ hơn nuôi ruộng.
- Thức ăn, thời gian cho ăn, cách cho ăn tương tự nuôi ruộng.
- Quản lý chất lượng nước trong ao nuôi: hàng tuần nên định kỳ đo độ pH, độ mặn, nhiệt độ nước một lần lúc 6 - 7 giờ sáng và 3 - 4 giờ chiều, sự thay đổi pH sáng và chiều không được quá 1 đơn vị, nếu nuôi tôm trong mùa mưa thì thường xuyên theo dõi độ pH trước và sau mưa, nhất là những cơn mưa lớn để tháo bớt tầng nước mặt ít nhất 20 cm.
* Lưu ý:
- Nếu để ổn định hoặc nâng thêm độ kiềm (pH) cho phù hợp trong ao đang nuôi tôm thì không nên sử dụng vôi nóng bón ruộng (CaO), nên dùng đá vôi xay (CaCO3) hoặc đá vôi đen (Dolomite).
- Kỹ thuật nuôi tôm sú công nghiệp và bán công nghiệp về nguyên tắc chung giống nhau, chỉ khác nhau ở mức độ và hình thức đầu tư.

Công nghiệp
Bán công nghiệp
Mật độ
30 con/m2
20 con/m2
Hệ thống sục khí đáy
X

Hệ thống quạt
16 cánh quạt
8 cánh quạt

Khuyến cáo mùa vụ nuôi thả tôm các tháng cuối năm 2012 đầu năm 2013


1. Đối với các hộ nuôi bán thâm canh và nuôi quảng canh cải tiến không đủ điều kiện về cơ sở hạ tầng:
- Không nên thả giống trong vụ mùa từ đầu tháng 11 năm 2012 đến đầu tháng 3 năm 2013, vì đây là thời điểm có thời tiết lạnh, tình hình bệnh đốm trắng có thể ngày càng gia tăng gây nhiều thiệt hại cho người nuôi tôm sú, thẻ chân trắng trên địa bàn huyện.
- Trong thời gian này nên tạm ngưng sản xuất, tập trung vào việc cải tạo ao nuôi, dành nhiều thời gian phơi ao (phơi khô mặt đáy ao đến nứt chân chim) để tiêu diệt mầm bệnh tồn lưu trong đất và các chất hữu cơ tích lũy ở nền đáy ao được khoáng hóa sau đó cho nước ra vào ao nuôi để cung cấp them nguồn dinh dưỡng cho đất.
- Thời gian thả nuôi vào năm 2013 sẽ được thông báo sau.
2. Đối với các trang trại nuôi thâm canh đủ điều kiện về cơ sở hạ tầng:
Không nên thả giống trong vụ mùa từ đầu tháng 11 năm 2012 đến đầu tháng 3 năn 2013; trong trường hợp các ao nuôi cải tạo sẵn cần thả nuôi thì phải chuẩn bị như sau:
- Khi lấy nước vào ao nuôi, người nuôi phải cho nước qua hệ thống túi lọc, lấy nước vào các ngày triều cường lớn nhất trong tháng. Khi nước vào ao đạt độ sâu tối thiểu 1,2 m thì tiến hành chạy quạt kích thích trứng các loài giáp xác nở và để lắng ít nhất từ 2 đến 3 ngày mới xử lý. Nước trong ao trước khi thả giống phải được xử lý triệt để bằng Chlorin hàm lượng lớn hơn 70%, với liều lượng 35 kg/1.000 m3 nước, thời điểm xử lý nước trong ao tốt nhất là lúc chiều tối. Ngoài ra, còn có thể dùng Fomaline để diệt nhóm Protozoa trong nước và đáy ao.
- Khi thả tôm giống, đối với tôm chân trắng nên chọn tôm giống có nguồn gốc rõ ràng, ở những trại sản xuất có uy tín và được kiểm dịch. Mật độ thả giống phù hợp nhất là từ 60 - 80 con/m2 tùy theo điều kiện đầu tư và kinh nghiệm của người nuôi. Riêng với tôm sú, người nuôi cần chọn giống tại những trại thật sự tin tưởng, được kiểm dịch, giống có nguồn gốc rõ ràng, mật độ thả từ 15 - 20 con/m2.
- Sau khi chọn tôm giống bằng phương pháp cảm quan để xác định tôm giống khỏe mạnh, người nuôi nên mang tôm đi kiểm tra bằng phương pháp PCR để xác định tôm có bị nhiễm mầm bệnh đốm trắng, đầu vàng hay không.
- Trước khi thả giống vào ao, người nuôi cần điều chỉnh các yếu tố môi trường nước trong ao cho thích hợp; thời gian thả giống thích hợp là lúc sáng sớm hoặc chiều tối để tránh gây sốc cho tôm.
- Đối với các ao tôm đang nuôi, người nuôi cần thường xuyên theo dõi diễn biến thời tiết, môi trường, dịch bệnh để có biện pháp xử lý ao phù hợp, để bổ sung một số khoáng chất cần thiết và Vitamin C nhằm tăng cường sức đề kháng cho tôm. Khi có hiện tượng bệnh đốm trắng, đầu vàng, bệnh gan tụy xảy ra trên tôm nuôi, cần thông báo cho cán bộ của Trạm Thú y, Kỹ thuật viên thủy sản trên địa bàn để được hướng dẫn biện pháp cách ly và hỗ trợ hóa chất dập dịch, tuyệt đối không được xả nước ao nuôi tôm bị bệnh chưa xử lý ra môi trường bên ngoài làm lây lan bệnh.